Quần đảo Hoàng Sa: Trung Quốc dẫn chứng lịch sử mơ hồ


Các cuộc tranh luận trên diễn đàn của Trường Nghiên cứu quốc tế S. Rajaratnam (RSIS, Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore) tiếp tục dành thời lượng khá đáng kể cho vấn đề tranh chấp trên khu vực biển Đông hiện nay.

Bộ Atlas thế giới xuất bản năm 1827

Bộ Atlas thế giới xuất bản năm 1827

Sau bài viết của giáo sư Li Dexia (The school of Southeast Asian Studies – Đại học Hạ Môn, Trung Quốc), một nhà nghiên cứu khác, giáo sư Bill Hayton (*) đã có bài phân tích phản biện với nhiều thông tin và lập luận đáng chú ý.

Những người ủng hộ yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc đối với các đảo của biển Đông thường xuyên nêu ra những dẫn chứng lịch sử mơ hồ để hậu thuẫn cho lập luận của họ. Để được đánh giá thỏa đáng, các dẫn chứng chính xác cần được đưa ra tường minh và đánh giá trung thực.

Bài bình luận của giáo sư Li Dexia (Lý Đức Hà) về quần đảo Hoàng Sa là một tóm tắt có ích về các lập luận đưa ra để hậu thuẫn “yêu sách lịch sử” của Trung Quốc đối với các đảo. Tác giả bài viết (Bill Hayton – PVS) biết rõ những lập luận này: bài viết năm 2003 của giáo sư Hà, “Đường chấm chấm trên bản đồ biển Đông của Trung Quốc” (The dotted line on the Chinese map of the South China Sea)” là một trong những bài viết đầu tiên bằng tiếng Anh bàn luận về quan điểm của Trung Quốc.

Tuy nhiên, bài bình luận của giáo sư Hà trên RSIS có tựa là “Quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa): Tại sao chủ quyền của Trung Quốc là không thể tranh cãi“ đề ngày 20-6-2014 lại thiếu vắng những chứng cứ có thể kiểm chứng được…

Không có bằng chứng thuyết phục

Giáo sư Hà cho chúng ta biết: “Dựa trên nhiều tài liệu lịch sử Trung Quốc, ít nhất là từ thời Bắc Tống (960-1127 AD), Trung Quốc đã thực thi có hiệu quả chủ quyền và quyền tài phán trên hai quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa)”.

Những người ủng hộ yêu sách lịch sử của Trung Quốc ở biển Đông đôi khi nêu dẫn chứng từ các tài liệu xưa có đề cập đến “biển” hoặc “các đảo”. Theo hiểu biết của tôi, không một dẫn chứng nào trong số đó có thể được nhận ra là khớp với bất kỳ đảo cụ thể nào. Đơn giản là không có cách nào để nói liệu các đảo được đề cập đến có thuộc về quần đảo Hoàng Sa hoặc thuộc về quần đảo Trường Sa hay chỉ là một trong hàng trăm đảo nằm cách bờ biển Trung Quốc trong vòng một vài hải lý.

Liệu tác giả có thể đưa ra các dẫn chứng cụ thể từ các câu chữ chính xác trong các tài liệu lịch sử hay không? Có tài liệu nào trong đó xác định quần đảo “Tây Sa” và “Nam Sa” theo tên hay không? Dựa trên nghiên cứu của riêng tôi, tôi không tin rằng có bất kỳ tài liệu chính thức của Trung Quốc phát hành trước năm 1909 sử dụng những từ ngữ này.

Thực tế, tôi không thấy có bằng chứng thuyết phục nào chứng minh Trung Quốc có bất kỳ quan tâm chính thức nào tới quần đảo Hoàng Sa trước năm 1909. Như nhà nghiên cứu Pháp Francois-Xavier Bonnet đã chứng minh, bản đồ tỉnh Quảng Đông xuất bản vào năm 1897 không vượt quá phía nam đảo Hải Nam.

Tình hình này thay đổi vào năm 1909 vì chủ nghĩa dân tộc dấy lên ở Trung Quốc bị kích động, đặc biệt do việc phát hiện có một doanh nhân Nhật Bản đang khai thác phân chim ở đảo Pratas – nằm giữa Hong Kong và Đài Loan.

Giai đoạn quan trọng trong lịch sử quần đảo Hoàng Sa bị bỏ qua

Sau phát hiện đó, tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Nhân Tuấn tổ chức một nhóm người đi đến quần đảo Hoàng Sa. Theo chủ công ty tàu hàng trong khu vực là người Pháp tên P.A. Lapicque (ghi lại trong một cuốn sách xuất bản 20 năm sau), phái đoàn của quan tổng đốc được hai người Đức của Xí nghiệp Carlowitz và công ty dẫn đường.

Có vẻ là không có hoa tiêu địa phương nào làm được nhiệm vụ đó. Nhóm đã phải bỏ neo ngoài bờ biển đảo Hải Nam nằm chờ thời tiết tốt và sau đó đi đến quần đảo Hoàng Sa vào ngày 6-6 rồi trở về Quảng Châu vào ngày hôm sau. Bây giờ chuyến đi này là cơ sở cho yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa.

Lapicque ghi nhận với sự ngờ vực là làm sao mà chuyến đi ngắn ngủi này lại có thể làm ra được 15 bản đồ chi tiết của quần đảo Hoàng Sa. Có vẻ có nhiều khả năng là chính quyền Quảng Đông chỉ đơn giản là sao chép các bản đồ quần đảo này của người châu Âu lúc đó và đặt tên Trung Quốc cho các thể địa lý ở đó.

Dường như cái tên “Tây Sa” có nguồn gốc từ đây ra: có thể là từ dịch của tên tiếng Anh của đảo West Sand (đảo Cát Tây – tức là Tây Sa theo tiếng Trung – ND), một đảo trong quần đảo Hoàng Sa.

Tiến gần hơn đến ngày nay, giáo sư Lý Đức Hà không chính xác khi khẳng định rằng: “Tuy nhiên, sau khi Nhật đầu hàng vào năm 1945, quần đảo này được trả lại cho Trung Quốc theo Tuyên bố Cairo và Tuyên bố Potsdam”. Cả hai tuyên bố này đều không đề cập quần đảo Trường Sa hoặc quần đảo Hoàng Sa. Điều này là do Pháp vận động hành lang để cho hai quần đảo này được công nhận là lãnh thổ Pháp nên các đồng minh đã không đưa ra cam kết nào về chủ quyền tương lai của chúng.

Giáo sư Hà cũng bỏ qua một giai đoạn quan trọng trong lịch sử của quần đảo Hoàng Sa. Như chuyên gia Na Uy Stein Tonnesson, đã chứng minh một cách khẳng định, lực lượng vũ trang của cả Trung Hoa Quốc Dân Đảng lẫn của Pháp chiếm đóng các đảo khác nhau trong quần đảo Hoàng Sa sau Chiến tranh Thế giới thứ hai…

Lực lượng vũ trang của Pháp và sau đó của Việt Nam vẫn kiểm soát đảo Hoàng Sa từ thời điểm đó cho đến khi họ bị đẩy bật ra bởi cuộc xâm lược của Trung Quốc vào tháng 1-1974…

BILL HAYTON (TTCT)

PHAN VĂN SONG trích dịch

(*): Bill Hayton là tác giả cuốn sách

Biển Đông: cuộc đấu tranh giành quyền lực ở châu Á sẽ được Nhà xuất bản Đại học Yale xuất bản tháng 9-2014.